- hay olivier putois.
Tên thông thường phát nguồn từ danh từ latin “ stercus ” là “ phân ” nên tên loài được nhấn mạnh ở chữ “ foetida ” có nghĩa là hôi thúi.
Là một loài của cây thuộc họ Sterculiaceae theo sự phân loại xưa hay thuộc họ Malvaceae phân loại theo di truyền thực vật phytogénétique.
Là một cây lá chẻ như bàn tay xòe cho ra nhiều hoa nhỏ có mùi hôi, nên có những tên gọi ở địa phương phản ảnh cho đặc tính này.
, Ấn Độ, Sri Lanka, Miến Điện, Thái Lan, Nam Dương, Mả Lai và Úc.
Cây đại mộc to có thể đạt tới 20 m chiều cao. Vỏ thân láng mịn, màu xám.
Lá rụng, lá xếp theo vòng xoắn trên đỉnh ngọn của những nhánh, phát triển gắn theo mặt phẳng, trơn láng, lá nguyên, do 5 đến 9 lá phụ hình bầu dục, dài đến 30 cm, không lông, đầu nhọn, gân phụ nhiều, cuống phụ dài 1 cm.
Hoa, chùm tụ tán, nhiều ở ngọn nhánh, hoa khá lớn xuất hiện một lượt với lá, tạp phái, màu vàng tía, hoa có mùi hôi, đài có màu đỏ ở mặt trong, có một ít lông ở chót, đường kính khoảng 2 đến 2,5 cm. Hùng thư đài mang 1 đến 15 bao phấn, nhụy cái do 5 tâm bì.
Trái lớn, khoảng 10 cm dài, manh nang, đỏ tươi, có từ 1-2, hình trứng, quả bì dày, cứng, đỏ.
Bộ phận sử dụng :
Thân, vỏ, lá và hạt.
Mủ trôm lấy từ thân.
Thành phần hóa học và
dược chất :
Các hợp chất được phân lập bỡi những kỹ thuật sắc ký. Cấu trúc của những hợp chất này đã được làm sáng tỏ bằng phương pháp quang phổ.
► Nhân :
▪ Dầu cố định, 51.78%;
▪ Chất đạm protéin, 21.61 %;
▪ tinh bột, 12.1 %;
▪ đường, 5%;
▪ cellulose, 5.51%;
▪ tro, 3%.
► Hợp chất phân lập từ lá, những nghiên cứu đã tìm được 2 chất flavonoid glycosides mới và phenylporpanoid glucose ester mới
.
● Dung dịch trích trong rượu ethanol thu được :
- flavonoids,
- saponins,
- và alkaloids.
● Nghiên cứu trích xuất từ lá biết được 46 hợp chất, bao gồm :
- 36 flavonoids,
- 4 coumarins,
- 6 acids hữu cơ,
- và 3 hợp chất sterides.
● Đồng thời cũng nghiên cứu từ lá thu được 8 hợp chất :
▪ 5,7,8-tetrahydroxy-4'-methoxyflavone-8-O-beta-D-glucoside, (1)
▪ 5,7,8-tetrahydroxy-4'-methoxyflavone-7-O-beta-D-glucoside, (2)
▪ quercetin-3-O-beta-D-glucoside, (3)
▪ apigenin-6, 8-di-C-beta-D-glucoside, (4)
▪ puerarin, (5)
▪ 5,7,8,3'-tetrahydroxy-4'-methoxyflavone, (6)
▪ 5,7,8-tetrahydroxy-3',4'-dimethoxyflavone, (7)
▪ 5,7,8-tetrahydroxy-4'-methoxyflavone. (8)
Kết luận : Hợp chất 1, 2 và 4-8 Đã được phân lập từ cây này lần đầu tiên.
► Nhựa trôm hay mủ trôm :
● Tính chất hóa học :
▪ Là một hợp chất polysaccharide có phân tử cao, khi thủy phân sẽ cho ra những chất :
- đường D-galactose,
- L-rhamnose,
- acid D-galacturonic,
- một vài chất chuyển hóa acetylat,
- và trimethylamin.
▪ Nhựa trôm còn chứa khoảng :
- acide uronique 37%,
▪ Mủ trôm khi ngâm trong nước lạnh với tỉ lệ thấp (4-5%) nhựa trôm sẽ trở thành dạng keo.
● Tính chất vật lý :
Mủ trôm có màu trắng, dạng thạch sương sa, trong đục, khi ngâm trong nước nở ra kết dính từng cục đặc, xốp,
Từ nhiều năm nay, mủ trôm chủ yếu dùng làm thức uống giải khác, tính mát như là vị thuốc.
Ngoài ra trong kỹ nghệ nhờ ờ đặc tính kết dính, mủ trôm được sủ dụng trong ngành dược….
Thành phần dinh dưỡng cho (/100g)
- Glucid: 64,06 g
Nhiều nguyên tố khoáng như :
- Ca: 101,06 mg
- Zn: 0,29 mg
- Na:5,27 mg
- K: 297,01 mg
- Mg: 43,01 mg
- Fe: 0,91 mg
- Chất xơ thực phẩm hòa tan trong nước với hàm lượng cao.
Đặc tính trị liệu :
▪ Trong y học, mủ trôm nhờ đặc tính như :
- hút nước mạnh,
- trương nở,
- gây kích thích nhu động ruột.
Do đó mà phân được dể dàng đẩy ra ngoài, nên mủ trôm được xem như là :
- thuốc nhuận trường dùng để điều trị chứng táo bón.
Nhựa trôm còn có tác dụng :
- điều hòa đường huyết,
- ổn định huyết áp,
- mát gan,
- giải độc gan,
- giúp mau lành vết thương...
Trong ngành dược, nhựa trôm được sử dụng với vai trò chất kết dính, nhũ hóa và bảo quản rất tốt.
● Lõi cây trôm: nặng mùi hôi.
- hơi nhiệt,
- lọc máu dépuratif,
- hạ sốt fébrifuge,
- và chữa lành vết thương
Rất hữu ích trong chữa trị :
- chứng co giật convulsions,
- bệnh thần kinh neuropathie,
- bệnh giun sán helminthiase,
- bệnh phong cùi lèpre,
- những bệnh về da,
- bệnh đơn độc, viêm vi trùng ở da érysipèle,
- bệnh sốt fièvre,
- loét ulcères,
- và chứng đau đầu céphalées.
● Gổ cây trôm mềm và rất mềm, nhẹ và rất nhẹ, độ cứng thấp.
Được xem như :
- thuốc nhuận trường laxatif,
- lợi tiểu diurétique,
- và là một chất chống côn trùng insectifuge.
● Hạt, ở Ghana, những hạt dùng như :
- thuốc sổ purgatif.
● Tinh dầu trích từ hạt, trên bình diện địa phương để sử dụng trong y học :
- Dầu được báo cáo giống như dầu olive trong những đăc tính sinh lý học của nó, không độc, không gây kích ứng và được đưa vào chữa trị như là một thuốc nhuận trường nhẹ.
● Vỏ và lá được xem như :
- thuốc xổ laxatif,
- làm tháo mồ hôi sudorifique,
- lợi tiểu diurétique.
- Những hạt có hương vị cacao, nhưng không đắng và dùng để làm giả cacao.
- Dầu nhạt, vị ngọt, màu vàng, với một phị điểm (điểm nóng chảy ) cao.
● Mủ Trôm
* Theo y học truyền thống đông y, mủ trôm có :
- vị ngọt,
- tính mát,
- tác dụng giải nhiệt,
- giải độc,
- nhuận trường
Do có thành phần chất xơ thực phẩm khá cao và có khả năng trương nở gấp từ 8 đến 10 lần trong nước do đó có thể kết dính những chất cặn bả độc hại trong ruột già, gia tăng lượng phân và kích thích nhu động ruột.
Ngoài ra, mủ trôm giúp cải thiện :
- lượng mỡ trong máu,
- gia tăng cảm giác no ( nhờ sự trương nở của chất xơ ),
- điều tiết lượng đường trong máu ở những người
bệnh béo phì,
Người Việt Nam thường dùng kết hợp mủ trôm, đười ươi, hột é để làm thức uống giải khát tác dụng:
- mát, thanh nhiệt,
- và giải độc cơ thể.
● Kỹ thuật khai thác:
Mủ trôm do nhựa luyện từ trong bó libe-mộc đi ra, nên việc khai thác được thực hiện bằng cách “ đục ” vào vỏ cây những lỗ nhỏ vuông hoặc tròn khoảng 2 cm đường kính, số lượng lỗ nhiều hay ít tùy theo chu vi cây trôm lớn hay nhỏ, lỗ này được đục sâu đến phần gổ của cây.
Sau đó nhựa ( mủ) từ lỗ chảy ra, chu kỳ lấy mủ từ 3 đến 4 ngày, sau đó phản ứng tự vệ vết thương của cây sẽ tự động hàn gắn bít lại. Người ta tiếp tục tạo những lỗ khác.
Mũ chảy tươm ra sẽ đóng thành từng cục trên vỏ cây trên miệng lỗ, người ta gở lấy và đem phơi khô dưới nắng gắt trong thời gian khoảng 1 đến 2 ngày và có thể đem sử dụng được.